Cơ hội để ngành thuỷ sản Việt Nam mở rộng thị trường tại EU thông qua việc tận dụng ưu đãi từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU là rất lớn.
Để được hưởng ưu đãi thuế quan, thuỷ sản của Việt Nam phải đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU.
Thuế suất thuế nhập khẩu đối với thuỷ sản vào thị trường EU - thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm - hiện tương đối cao, ở mức 5%-20% đối với thuỷ sản thô, sơ chế 5,5%-26% đối với thuỷ sản chế biến.
Trong Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA), ngoại trừ cá ngừ đóng hộp và chả cá surimi EU áp dụng hạn ngạch thuế quan (lần lượt là 11.500 tấn và 500 tấn), các mặt hàng thuỷ sản còn lại được EU cam kết xoá bỏ thuế quan với lộ trình dài nhất là 7 năm.
Như vậy, cơ hội để ngành thuỷ sản Việt Nam mở rộng thị trường tại EU thông qua việc tận dụng ưu đãi từ EVFTA là rất lớn.
Để hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU, thủy sản Việt Nam phải đáp ứng quy tắc về xuất xứ hàng hóa. Ảnh: Báo Công Thương
Để được hưởng ưu đãi thuế quan từ EVFTA, thuỷ sản của Việt Nam phải đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định này và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EUR.1 theo EVFTA.
Hiện nay, Bộ Công Thương uỷ quyền cho 20 cơ quan, tổ chức (bao gồm 19 Phòng Quản lý Xuất nhập khẩu khu vực trên cả nước và Sở Công Thương Hải Phòng) được cấp C/O mẫu EUR.1 theo EVFTA.
Theo thống kê mới đây của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU được các cơ quan, tổ chức cấp C/O mẫu EUR.1 theo EVFTA đạt xấp xỉ 336,9 triệu USD, chiếm khoảng 69,5% trên tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU (đạt trên 485,3 triệu USD). Trong đó, thuỷ sản thô, sơ chế chiếm 65,3% và thuỷ sản chế biến chiếm 34,7%.
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản sử dụng C/O mẫu EUR.1, đại diện Cục Xuất nhập khẩu cho biết, các thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại EU sử dụng C/O mẫu EUR.1 chủ yếu là Đức, Bỉ, Hà Lan, Italy và Pháp.
Đây đều là những thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn của Việt Nam trong khối này với các sản phẩm nhập khẩu chính là tôm và cá ngừ.
Cục Xuất nhập khẩu đánh giá, khoảng 69,5% trị giá thủy sản xuất khẩu sang EU có sử dụng C/O mẫu EUR.1 trong nửa đầu năm nay là kết quả tương đối khả quan đối với ngành thủy sản khi Việt Nam mới thực hiện EVFTA chưa đầy một năm.
Tuy nhiên, quy tắc xuất xứ đối với thủy sản trong Hiệp định này vẫn đang là một thách thức đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
EVFTA yêu cầu sản phẩm thủy sản phải có xuất xứ thuần túy từ Việt Nam hoặc sử dụng nguyên liệu có xuất xứ thuần túy được nhập khẩu từ EU. Điều này có nghĩa là nguyên liệu thủy sản dùng cho thủy sản sơ chế hoặc chế biến phải được nuôi dưỡng, thu hoạch hoặc đánh bắt tại Việt Nam hoặc nhập khẩu có xuất xứ từ EU.
Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho thủy sản chế biến hiện nay của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là tôm. EU lại không phải là thị trường nhập khẩu nguyên liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất xuất khẩu trong nước.
Do vậy, năng lực sản xuất, kinh doanh, nguồn hàng nguyên liệu cho sản xuất của ngành thủy sản Việt Nam trong ngắn hạn chưa thể đáp ứng hoàn toàn tiêu chí xuất xứ thuần túy của EVFTA.
Với cam kết giảm thuế về 0% cho các mặt hàng thủy sản (trong đó có tôm) của EU dành cho Việt Nam trong EVFTA, thủy sản xuất khẩu nói chung và tôm xuất khẩu nói riêng của Việt Nam sẽ có lợi thế về thuế quan, có thể điều chỉnh giá cạnh tranh hơn trong thời gian sắp tới.
Một số chuyên gia nông nghiệp lưu ý, việc mở rộng và duy trì nguồn cung nguyên liệu trong nước nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ hàng hóa, đặc biệt trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang bị đứt gãy do ảnh hưởng của Covid-19, là yếu tố then chốt để ngành thủy sản của Việt Nam có thể tăng trưởng xuất khẩu tại thị trường EU nhờ “cú huých” từ EVFTA.
Theo Hải Quan Online
*Để có thông tin chi tiết và cập nhật nhất, xin liên hệ admin của AgroInfoServ.