Chế biến nông sản: Thách thức gắn vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến

Đề án phát triển ngành chế biến rau quả đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 8-10 tỷ USD vào 2030, gấp 2-3 lần so với hiện nay, trong đó giá trị xuất khẩu sản phẩm rau quả chế biến đạt 30% trở lên.
Đề án cũng đặt mục tiêu đưa Việt Nam vào top 10 quốc gia chế biến nông sản toàn cầu vào 2030.
Việc phát triển vùng nguyên liệu chưa gắn với nhà máy chế biến hay tình trạng ngược lại đang là thách thức để ngành chế biến rau quả đạt được mục tiêu như đề án đưa ra. 

Đề án phát triển ngành chế biến rau quả giai đoạn 2021-2030 vừa được Thủ tướng phê duyệt đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu rau quả đạt 8-10 tỷ USD vào 2030, gấp 2-3 lần so với hiện nay, trong đó giá trị xuất khẩu sản phẩm rau quả chế biến đạt 30% trở lên.

Việc phát triển vùng nguyên liệu chưa gắn với nhà máy chế biến hoặc tình trạng ngược lại đang là thách thức đối với ngành chế biến. Ảnh: Báo Nghệ An.

Đồng thời, tổn thất sau thu hoạch rau quả giảm bình quân trên 1%/năm, công suất chế biến rau quả đạt 2 triệu tấn sản phẩm/năm, gấp 2 lần so với năm vừa qua. Đề án cũng đặc mục tiêu thu hút đầu tư mới 50-60 cơ sở chế biến rau quả có quy mô lớn và vừa; Xây dựng và phát triển thành công một số tập đoàn, doanh nghiệp chế biến rau quả hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới với khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam có trên 70% cơ sở chế biến, bảo quản rau quả xuất khẩu đạt trình độ và năng lực công nghệ sản xuất tiên tiến.

Mục tiêu này không hề đơn giản vì mỗi năm Việt Nam sản xuất được 26 triệu tấn rau củ quả nhưng chỉ có 1 triệu tấn được qua chế biến.

Nằm giữa vùng nguyên liệu lớn 52.000 ha rau củ quả của Hải Dương, HTX Hưng Việt có hệ thống kho xưởng lớn với tổng mức đầu tư gần 70 tỷ đồng. Riêng tiền điện mỗi tháng cho 12 kho lạnh là 200 triệu đồng. Quy mô như vậy nhưng doanh nghiệp vẫn không đủ nhập trữ nông sản giá rẻ khi rộ vụ, nên vẫn không đáp ứng đủ đơn hàng từ nhiều quốc gia khác nhau.

Ông Tăng Xuân Trường, Giám đốc HTX Hưng Việt cho biết với diện tích kho doanh nghiệp hiện có chỉ đáp ứng được khoảng 10%, tương đương khoảng 2.000 tấn, không được bao nhiêu so với nhu cầu của khách hàng.

Sản phẩm cà rốt sau khi được sơ chế, khử trùng được trữ trong kho lạnh ở nhiệt độ âm 3-10o C. Đây là yêu cầu đầu tiên cũng là quan trọng và khó nhất đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đầu tư một kho lạnh gần 200m2 trên đất nhà phải tốn hơn 1 tỷ đồng, tháng nào trữ hàng doanh nghiệp phải chịu thêm chi phí tiền điện. Điều này khiến xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương chế biến tiêu thụ khoảng 74.000 tấn cà rốt mỗi năm nhưng chỉ có 1 HTX và 10 hộ dân có khả năng xây kho, xưởng đủ điều kiện chế biến xuất khẩu.

Ông Vương Đức Dũng, Bí thư xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương cho biết thời gian đưa cà rốt vào cấp đông mất 24-30 tiếng. Do thiếu kho nên tốc độ thu hoạch, sơ chế, đóng gói để cung cấp sản lượng theo đơn đặt hàng chưa đáp ứng được yêu cầu của bên mua.

Không đủ tiền, đất làm kho rộng, doanh nghiệp phải thuê nhiều container tạm trữ cà rốt, tiền điện tốn thêm gấp rưỡi so với kho thường nhưng sau đó vẫn tốn thêm công bốc dỡ sang kho cấp đông.

Ông Hồ Viết Hoàn, Giám đốc HTX Hoàng Nam Phát, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương cho biết hiện kho của HTX trữ được khoảng 300 tấn, những đơn hàng rất nhiều nên phải thuê thêm 10 công nữa, mỗi tháng mất thêm chi phí 12 triệu tiền điện mỗi container.

Câu chuyện vừa nêu cho thấy vùng nguyên liệu thì thiếu nhà máy nhưng chiều ngược lại nhiều nhà máy nhưng cũng thiếu nguyên liệu. Nguyên nhân là do hầu hết các loại rau củ quả được sản xuất theo mùa vụ, nhất là với trái cây. Vì vậy, nếu không có quy hoạch và tính toán cụ thể từ vùng trồng, kho bảo quản cho đến phương án sản xuất thì việc thừa thiếu nguyên liệu vẫn là bài toán chưa có lời giải.

Nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu Hội Vũ xây dựng tại Hà Nam từ hàng chục năm trước khi địa phương có chủ trương phát triển vùng nông sản nguyên liệu lớn. Một vài năm trở lại đây, dây chuyền sản xuất của nhà máy này chỉ chạy 40% công suất thiết kế. Từ chỗ mỗi năm xuất khẩu 600 container dưa chuột, ngô ngọt chế biến thì nay giảm xuống còn 1/3. Nguyên nhân là các vùng nguyên liệu tại Hà Nam ngày càng teo nhỏ, nhà máy phải tìm mua nguyên liệu từ nhiều tỉnh xa mà vẫn thiếu trầm trọng.

Ông Khuất Duy Hùng, Giám đốc Công ty TNHH chế biến nông sản xuất khẩu Hội Vũ cho biết giá xuất khẩu đi Nga không thay đổi nhưng giá mua nguyên liệu vụ vừa rồi tăng 30%. Doanh nghiệp không có lãi thậm chí còn phải bù lỗ.

Nhiều địa phương giờ đã trồng cà rốt nhưng sản phẩm này không trồng được mùa nóng, hàng chục nhà xưởng phải bỏ không nhiều tháng. Ông Nguyễn Đức Thuật, Giám đốc HTX dịch vụ Nông nghiệp Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương cho biết: “Chúng tôi chỉ làm cà rốt từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau nên những tháng còn lại kho lại bỏ trống”.

Thực tế cho thấy việc phát triển vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến là vấn đề lớn đối với quy hoạch và là thách thức để hiện thực hóa mục tiêu nằm trong top 10 quốc gia chế biến nông sản trên thế giới như đề án đặt ra.

Vì vậy, ông Trần Văn Quân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương mong muốn có cơ chế chính sách riêng và mạnh cho lĩnh vực chế biến để tạo động lực cho doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào chế biến sâu.

Ngoài ra, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cho rằng dựa trên vùng nguyên liệu, nhà nước có chính sách trong việc quy hoạch nhà chế biến rau quả để đảm bảo mỗi nhà máy đáp ứng được việc chế biến cho vùng sản xuất ở khu vực đó, giảm thiểu việc cạnh tranh giữa mỗi nhà máy.

Ngọc Hà (NDH)


*Để có thông tin chi tiết và cập nhật nhất, xin liên hệ admin của AgroInfoServ.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn